Viên nang ho Đại Đức Mạnh - Bổ phế, giảm ho, giảm đờm - Nguồn gốc từ thảo dược - Hộp 100 viên 145.000 ₫ Ngừng kinh doanh Xem Sản Phẩm Tương Tự Sản Phẩm Tương Tự 90.000 ₫ Đã bán 77 58.000 ₫ -32% Đã bán 4 65.000 ₫ -34% Đã bán 94 54.800 ₫ Đã bán 92 54.800 ₫ Đã bán 8 690.000 ₫ Mô Tả Sản Phẩm VIÊN NANG HO ĐẠI ĐỨC MẠNH Hộp 100 viên
Nguồn gốc của tên Việt Nam họ Phạm Họ Phạm là một họ của vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Họ Phạm ở Việt Nam có thể có hai nguồn gốc chính: từ nhóm người Việt trong Bách Việt của các nước Văn Lang và Âu Lạc cổ, từ các vùng phía Nam Trung Quốc di cư sang Việt Nam hóa. Ngoài ra còn có họ Phạm từ các họ khác được đổi thành họ Mạc, …
Góc cuộc sống; Phóng sự; Mạch nguồn văn hóa dân gian; Khoa Giáo . Lời Bác dạy; Quốc phòng địa phương; Hộp thư truyền hình; Thư viện quốc phòng; Những điều cần biết; Giữ trọn lời thề; Tri Ân . Nhắn tìm đồng đội; Đi tìm đồng đội; Kỷ vật thiêng liêng; Thể Thao
Hàng trôi nổi được "hô biến" thành hoa quả ngoại với giá đắt cắt cổ. Không chỉ nhập nhèm về nguồn gốc, giá cả bị thổi phồng, trong quá trình
Nguồn gốc xuất xứ của thuốc ho Sapphire. Thuốc ho Sapphire là sản phẩm được nghiên cứu và sản xuất bởi Công ty Cổ phần Dược phẩm Trung ương 2 (Địa chỉ: Số 9 Trần Thánh Tông, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Việt Nam). Thuốc được đóng hộp dưới dạng siro dạng
Nhận định được đưa ra tại hội nghị "Đảm bảo chất lượng, an toàn và minh bạch nguồn gốc, xuất xứ thực phẩm cho người tiêu dùng Việt Nam" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức ngày 18/10 diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều thách thức
8BSev8. Theo các nhà xã hội học trong cộng đồng dân tộc Việt Nam có khoảng 769 dòng họ. Con số đó là kể tất cả các chi nhánh. Nếu nói về nguồn cội thì có thể quy về khoảng 180-190 chính tông mà thôi. Điều đó cũng dễ hiểu vì trong quá trình phát triển của dân tộc nhiều người ở các miền đất khác nhau đến nơi vùng đất mới, lâu ngày sinh con, đẻ cháu lập nên một dòng họ nói đúng hơn là một chi nhánh và lấy tên họ của mình. Đúng như Nguyễn Khoa Điềm đã nói trong bài thơ “Đất nước” “Họ mang theo tên đất tên làng trong những chuyến đi xa”. Cũng như các họ khác, họ Hồ cũng ở trong bối cảnh lịch sử đó. Hiện nay ta thấy con cháu họ Hồ hầu như có mặt nhiều nơi trong cả nước, chẳng hạn như ở một số tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Tây, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Tp. Hồ Chí Minh, Minh Hải, Lâm Đồng … Ngược thời gian lịch sử, con cháu họ Hồ trong cả nước đều cùng chung ngài thuỷ tổ là Hồ Hưng Dật. Tại nhà thờ họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An có câu đối CỔ NGUYỆT MÔN CAO HỆ XUẤT THẦN MINH NGU ĐẾ TRỤ Nghĩa là họ Hồ có nguồn gốc từ vua Thuấn. Trong gia phả họ Hồ cũng có ghi “Châu trung Hồ tính giải kỳ niêm duệ” Nghĩa là người họ Hồ trong châu này đều là con cháu của ông. Theo sử sách để lại, ngài Hồ Hưng Dật là con cháu vua Thuấn bộ tộc Lạc Việt thuộc tỉnh Triết Giang. Xưa kia Triết Giang Ngô -Việt nằm trong dãy đất Bách Việt bị Hán tộc tràn xuống Hán hoá. Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt duy nhất không bị Hán hoá. Ngài Hồ Hưng Dật đậu Trạng nguyên vào năm thứ hai đời vua Hán Ấn Đế được cử sang Diễn Châu làm Thái Thú thời Hậu Hán vào khoảng 947-951 Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Nhưng cũng có ý kiến nói ngài Hồ Hưng Dật sinh ra trong thời loạn lạc. Các tập đoàn phong kiến Trung Quốc xâu xé nhau, triều chính thối nát, ông đậu Trạng nguyên đáng lẽ được giữ chức vụ trọng trách trong Triều nhưng lại chỉ được giữ chức ở một châu lỵ xa xôi hẻo lánh. Vì thế ông sang Giao Châu tìm nơi lập nghiệp và lánh nạn. ông chọn hướng Bào Đột huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An là nơi cận sơn cận thuỷ có địa thế thuận lợi để làm ăn. Đây cũng là nơi lợi thế dụng võ và ở ẩn. Sách cũng ghi ngài Hồ Hưng Dật là đồng liêu với Đinh Công Trứ thân sinh Đinh Bộ Lĩnh. Hồ Hưng Dật là Diễn châu Thái thú. Đinh Công Trứ là Thứ sử Hoan châu. Đền thờ Hồ Vương Hồ Hưng Dật tại xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An *** Trãi qua các triều đại Trần, Lê, Nguyễn con cháu họ Hồ đã có nhiều thành đạt và có công lao đóng góp phần mình trong quá tình xây dựng bảo vệ quê hương, dựng nước và giữ nước, đấu tranh cho công bằng xã hội, chen vai sát cánh cùng các dòng họ khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên qua các cuộc biến động lịch sử, con cháu họ Hồ phiêu tán nhiều nơi trong cả nước đôi khi phải thay họ đổi tên, chẳng hạn cháu mười hai đời của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm khi làm con nuôi cho tuyên phủ sứ Lê Huấn ở Thanh Hoá đổi thành Lê Liêm; cháu 4 đời của Lê Liêm là Lê Quý Ly tức Hồ Quý Ly. Hồ Thơm ở Tây Sơn tỉnh Bình Định đổi là Nguyễn Huệ tức vua Quang Trung… Đến nay biết được con cháu họ Hồ khởi đầu là Hồ Hưng Dật đã trải qua hơn 1000 năm. Miêu duệ của ngài đã đến đời thứ 37, 38 và có hai Tông phái – Tông phái ở Diễn Châu trưởng. – Tông phái ở Thanh Hoá thứ. Tông phái ở Thanh Hoá khởi đầu là Hồ Liêm. Cháu 4 đời của Hồ Liêm là Hồ Quý Ly 1336-1407. Con Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Là quan đại thần dưới triều Trần, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thiếu Đế nhường ngôi cho mình lập ra triều Hồ 1400 2. Năm 1401 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để làm Thái Thượng Hoàng. Triều Hồ tồn tại được bảy năm thì bị nhà Minh sang xâm lược, bắt được cha con Hồ Quý Ly đem về nước, nhưng được vua Minh trọng dụng vì có tài. Hiện nay con cháu Hồ Quý Ly còn tồn tại ở Trung Quốc trong đó sử sách ghi lại như Hồ Minh Đạo đậu Tiến sĩ Trung Hoa được cử làm Bố Chánh tỉnh Triết Giang. Hồ Hán Dân đậu cử nhân niên hiệu Quang Tự 1911 làm Phủ đạo nguyên soái, uỷ viên trong chính phủ Dân quốc Tưởng Giới Thạch đã từng giúp đỡ Cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc 3. Sau thất bại của Hồ Quý Ly một số con cháu phiêu tán các nơi, số còn lại sinh sống ở Thanh Hoá. Tông phái ở Diễn Châu khởi đầu là Hồ Kha. Hồ Kha sinh hạ được Hồ Hồng trưởng và Hồ Cao thứ. Hồ Hồng là Tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Cao là tổ họ Hồ ở Quỳ Trạch, xã Thọ Thành, huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An. Hồ Hồng là Chánh đội trưởng đời Trần, một võ quan cao cấp chỉ huy trên quân. Võ văn kiêm toàn, ông hy sinh trong chiến trận, mộ hiện tại ở xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Năm 1992, mộ ông được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử và văn hoá. Ở thôn Cẩm Sa, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng cũng có tượng đài của ông. Miêu duệ Hồ Hồng hiện nay xác định có 14 chi nhánh và có mặt nhiều nơi trong cả nước như đã nói trên. Ngoài các nhân vật lịch sử lớn như Hồ Quý Ly nhà cải cách, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh tụ của phong trào nông dân, Hồ Học Lãm, Hồ Tùng Mậu chiến sĩ cộng sản. về khoa bảng họ Hồ có 19 Tiến sĩ trong đó có 3 Trạng nguyên, 3 Hoàng giáp kể từ năm 1919 trở về trước. Chẳng hạn Con Hồ Cao là Trạng nguyên Hồ Tông Thốc Con Hồ Tông Thốc là Trạng nguyên Hồ Đốn Con Hồ Đốn là Trạng nguyên Hồ Thành “Một nhà ba Trạng nguyên ngồi Một gương từ mẫu cho đời soi chung” Ba con trai của Hồ Thành là Hồ Đình Trung, Hồ Đình Quế, Hồ Doãn Văn đều là Tiến sĩ triều Lê- gia đình ông Hồ Văn Xu xã Quỳnh Thiện, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An có công xây dựng nhà Lê trung hưng có 9 Thượng tướng quân cũng là 9 Quận công. Theo Quốc triều khoa lục của Cao Xuân Dục, triều Ngyễn họ Hồ có 109 cử nhân trong đó có họ Hồ ở Quỳnh Đôi có 28 cử nhân- Nhiều gia đình cha con, ông cháu, anh em cùng thi đậu như Hồ Sĩ Trinh ông, cháu, Hồ Phi Tự cha, con, Hồ Bá Ôn ông, cha, cháu, Hồ Trọng Đinh cha, con, Hồ Sĩ Lâm anh, em, Hồ Quý Châu ba anh em, Hồ Tam Kiểm cha, con. Riêng ở Quỳnh Đôi kể từ Hồ Uớc Lễ đời vua Lê Nhân Tông cho đến 1919 hết thi cử bằng chữ Hán có một Thái học sinh, hai Hoàng giáp, ba Tiến sĩ, một Thiên hạ vọng, 51 Hội thi Tam trường và phó bảng, 110 giám sinh Hương cống và cử nhân, 208 sinh đồ và tú tài. Từ năm 1919 đến năm 1945 trong phong trào Tây học cũng có nhiều người đỗ đạt như Tiến sĩ Luật Hồ Đắc Điềm, bác sĩ Hồ Đắc Di, kỹ sư Hồ Đắc Liên…4 Theo sử sách thì số tiến sĩ họ Hồ không nhiều bằng họ Ngô, họ Vũ nhưng họ Hồ thường được nhắc đến vì đã từng đạt được đỉnh cao về khôi nguyên và tập trung vào một dòng thống nhất. Ngoài ra ra một số người gốc họ Hồ đổi sang các họ khác chưa tra cứu được 5 Họ Hồ chữ Hán *** Lịch sử Việt Nam còn ghi vua Hồ Qúy Ly, vua Quang Trung, các nhà học giả, nhà văn, nhà thơ như Trạng nguyên Hồ Tông Thốc, Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương, Hoàng giáp Hồ Phi Tích, Tiến sĩ Hồ Sĩ Tân, Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương … các nhà yêu nước và cách mạng như tiến sĩ Hồ Sĩ Tuần, Án sát Hồ Bá Ôn, các ông Hồ Trọng Phấn, Hồ Học Lãm, Hồ Tùng Mậu … mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân ta nói chung và con cháu họ Hồ nói riêng. Cây có cội, nước có nguồn. Nhớ ơn tổ tiên ta đã đặt nền móng, con cháu đời tiếp đời cùng nhau dày công cun đắp sao cho mỗi ngày gốc càng vững, cây càng tươi tốt, sây hoa trĩu quả chen vai sát canh cùng các dòng họ khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam góp phần xây dựng Tổ quốc giàu mạnh như Bác Hồ từng mong muốn. Họ Hồ ở Quảng Trị bước đầu đã tìm ra những manh mối, gốc tích của mình nhưng vẫn chưa có điều kiện để tìm về cội nguồn. Để nhớ ơn tổ tiên, phát huy truyền thống của dòng họ, hy vọng một ngày nào đó con cháu họ Hồ khắp nơi trong cả nước, trong đó có Quảng Trị, tổ chức hành hương về cội nguồn đất tổ làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An để thắp nén hương ngưỡng mộ linh hồn tiền nhân vô vàn kính mến./ Tác giả Hồ Đắc Thắng Tạp chí Cửa Việt số 33 tháng 6 năm 1997 ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………. 1- Nhà thờ họ Hồ tại Quỳnh Đôi, Qùnh Lưu, Nghệ An được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và văn hoá. 2- Hiện còn di tích thành Nhà Hồ ở Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. 3- đã được ông Hồ Tùng Lãm, Hồ Tùng Mậu xác nhận. 4- Sau cách mạng tháng Tám, con cháu họ Hồ có nhiều ngwoif thành đạt nhưng chưa có điều kiện tập hợp’ 5- Họ Hồ ở các dân tộc Vân Kièu, Tà Ôi ở miền Tây Bình Trị Thiên lấy họ Hồ là họ của Bác Hồ, không thuộc họ Hồ nói trong bài.
Họ Hồ Việt Nam ❤️️ Lịch Sử, Nguồn Gốc, Gia Phả Họ Hồ ✅ Những Thông Tin Hữu Ích, Cần Thiết Được Chúng Tôi Biên Soạn Và Gợi Ý Đến Bạn Đọc. Nguồn Gốc Họ Hồ Việt NamLịch Sử Họ Hồ Việt NamÔng Tổ Họ Hồ Là AiSơ Đồ Gia Phả Họ HồTỷ Lệ Họ Hồ Chiếm Bao Nhiêu Phần TrămDòng Họ Hồ Có Ai Nổi TiếngHọ Hồ Trong Tiếng TrungHọ Hồ Trong Tiếng NhậtHọ Hồ Trong Tiếng AnhHọ Hồ Trong Tiếng Hàn100 Tên Họ Hồ Đẹp Cho Bé Trai100 Tên Họ Hồ Đẹp Cho Bé GáiTư Vấn Đặt Tên Họ Hồ Miễn Phí chia sẻ đến bạn đọc một số thông tin xoay quanh chủ đề ”Nguồn Gốc Họ Hồ Việt Nam” chi tiết dưới đây. Theo sử sách ghi chép lại, con cháu họ Hồ trong cả nước đều cùng chung ngài thuỷ tổ là Hồ Hưng Dật. Tại nhà thờ họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An có câu đối Cổ nguyệt môn cao hệ xuất thần minh ngu đế trụ Nghĩa là họ Hồ có nguồn gốc từ vua Thuấn. Trong gia phả họ Hồ cũng có ghi “Châu trung Hồ tính giải kỳ niêm duệ” Nghĩa là người họ Hồ trong châu này đều là con cháu của ông. Ngài Hồ Hưng Dật là con cháu vua Thuấn bộ tộc Lạc Việt thuộc tỉnh Triết Giang. Xưa kia Triết Giang Ngô -Việt nằm trong dãy đất Bách Việt bị Hán tộc tràn xuống Hán hoá. Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt duy nhất không bị Hán hoá. Ngài Hồ Hưng Dật đậu Trạng nguyên vào năm thứ hai đời vua Hán Ấn Đế được cử sang Diễn Châu làm Thái Thú thời Hậu Hán vào khoảng 947-951 Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Nhưng cũng có ý kiến nói ngài Hồ Hưng Dật sinh ra trong thời loạn lạc. Các tập đoàn phong kiến Trung Quốc xâu xé nhau, triều chính thối nát, ông đậu Trạng nguyên đáng lẽ được giữ chức vụ trọng trách trong Triều nhưng lại chỉ được giữ chức ở một châu lỵ xa xôi hẻo lánh. Vì thế ông sang Giao Châu tìm nơi lập nghiệp và lánh nạn. ông chọn hướng Bào Đột huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An là nơi cận sơn cận thuỷ có địa thế thuận lợi để làm ăn. Đây cũng là nơi lợi thế dụng võ và ở ẩn. Sách cũng ghi ngài Hồ Hưng Dật là đồng liêu với Đinh Công Trứ thân sinh Đinh Bộ Lĩnh. Hồ Hưng Dật là Diễn châu Thái thú. Đinh Công Trứ là Thứ sử Hoan châu. Tìm Hiểu 🍁 Việt Nam Có Bao Nhiêu Họ ❤️️ Danh Sách, Lịch Sử Tất Cả Các Dòng Họ Lịch Sử Họ Hồ Việt Nam Dưới đây là một vài dòng chi tiết chia sẻ về lịch sử họ Hồ ở Việt Nam, cùng theo dõi ngay nhé! Qua các cuộc biến động lịch sử, con cháu họ Hồ phiêu tán nhiều nơi trong cả nước đôi khi phải thay họ đổi tên, chẳng hạn cháu mười hai đời của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm khi làm con nuôi cho tuyên phủ sứ Lê Huấn ở Thanh Hoá đổi thành Lê Liêm; cháu 4 đời của Lê Liêm là Lê Quý Ly tức Hồ Quý Ly. Hồ Thơm ở Tây Sơn tỉnh Bình Định đổi là Nguyễn Huệ tức vua Quang Trung… Đến nay biết được con cháu họ Hồ khởi đầu là Hồ Hưng Dật đã trải qua hơn 1000 năm. Miêu duệ của ngài đã đến đời thứ 37, 38 và có hai Tông phái Tông phái ở Diễn Châu trưởng.Tông phái ở Thanh Hoá thứ. Ông Tổ Họ Hồ Là Ai Ông tổ đầu tiên của họ Hồ ở Việt Nam là trạng nguyên Hồ Hưng Dật sống vào thế kỷ thứ X,vào thời Hậu Hán, quê gốc ở Chiết Giang Trung Quốc Ông sang làm thái thú Diễn Châu được vài năm thì loạn 12 sứ quân, ông đến hương Bàu Đột nay là xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An lập nghiệp. Tham khảo thêm 💧 3 Dòng Họ Lớn Nhất Việt Nam ❤️️ Những Họ Đông Nhất Sơ Đồ Gia Phả Họ Hồ Chia sẻ hình ảnh sơ đồ gia phả Hồ Văn giúp các bạn đọc có thêm nhiều thông tin hữu ích cho mình. Sơ Đồ Gia Phả Họ Hồ Tỷ Lệ Họ Hồ Chiếm Bao Nhiêu Phần Trăm Tỷ Lệ Họ Hồ Chiếm Bao Nhiêu Phần Trăm? Đáp án sẽ là họ Hồ chiếm 1,3% dân số Việt Nam và đứng thứ 13 họ phổ biến của người Việt theo thống kê gần nhất. Hằng năm vào ngày 12 tháng giêng con cháu họ Hồ tổ chức đại lễ dâng hương tại nhà thờ họ Hồ Đại tộc ở tỉnh Nghệ An. Dòng Họ Hồ Có Ai Nổi Tiếng Chia sẻ đến bạn đọc một số nhân vật tiêu biểu nổi tiếng mang họ Hồ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Hồ Quý Ly, hoàng đế đầu tiên của nhà HồHồ Sĩ Đống, nhà thơ và đại quan của nhà Lê trung hưngHồ Đắc Trung, tể tướngHồ Xuân Hương, nữ thi sĩHồ Học Lãm, nhà chính trịHồ Huân Nghiệp, nhà giáoHồ Biểu Chánh, nhà văn miền Nam đầu thế kỷ XXHồ Hữu Tường, một chính trị gia, nhà văn và nhà báoHồ Tông Thốc, sử gia cuối thời TrầnHồ Bắc, nhạc sĩ nổi tiếngHồ Đắc Di, giáo sư, bác sĩ, hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Y Hà NộiHồ Thị Kim Thoa, thứ trưởng Bộ Công thươngHồ Ngọc Hà, ca sĩ, người mẫu và diễn viên Việt NamHồ Quỳnh Hương, ca sĩ pop Việt NamHồ Tấn Tài, tuyển thủ quốc gia Việt NamHồ Hoài Anh, nhạc sĩ – nghệ sĩ ưu tú của Việt NamHồ Xuân Năng, doanh nhân người Việt NamHồ Ngọc Lân, nhà hoạt động cách mạng Việt NamHồ Ngọc Đại, Giáo sư về khoa học giáo dụcHồ Nghinh, nhà cách mạng Việt Nam Tìm Hiểu 💦 Những Họ Hiếm Ở Việt Nam ❤️️ Họ Độc Lạ, Ít Nhất Việt Nam Họ Hồ Trong Tiếng Trung Họ Hồ trong tiếng Trung chữ Hán là 胡. Theo một thống kê vào năm 2006 thì tại Trung Quốc, họ Hồ xếp thứ 15 về độ phổ biến, còn trong Bách gia tính, họ này được xếp ở vị trí 158. Dưới đây là một số nhân vật tiêu biểu nổi tiếng mang dòng họ này. Hồ Duy Dung, Tể tướng thời Nhà Minh Trung QuốcHồ Hán Dân, Viện trưởng Lập pháp viện Trung Hoa Dân quốcHồ Liên, tư lệnh phòng thủ kim môn Quốc dân Đảng Trung HoaHồ Kiều Mộc, Chủ tịch Viện Khoa Học Xã Hội Trung quốcHồ Vinh Hoa, danh thủ cờ tướng 14 lần vô địch toàn Trung QuốcHồ Quân, diễn viên điện ảnh nổi tiếng Trung QuốcHồ Nhất Thiên, diễn viên điện ảnhHồ Ngạn Lâm, Đô đốc Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung QuốcHồ Hạnh Nhi, diễn viên truyền hình – diễn viên điện ảnh, diễn viên kịch nói, ca sĩ, người mẫu nổi Cẩm Đào, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Khám phá ➡️ Họ Hồ Tiếng Trung ❤️️100+ Tên Họ Hồ Trung Quốc Hay Nhất Họ Hồ Trong Tiếng Nhật Hồ Hồ trong tiếng Nhật được viết theo chữ Kanji là 胡. Trong cuốn Đại từ điển Tên họ Nhật Bản 日本苗字大辞典 có tới 291129 mục từ chỉ họ. Đây là đất nước có nhiều họ nhất trên thế giới hơn 10 vạn họ. Tuy đa dạng với nhiều họ nhưng ở đất nước hoa anh đào họ 胡 rất hiếm và hầu như không có. Họ Hồ Trong Tiếng Anh Những người mang họ Hồ ở phương Tây rất hiếm và đa số là của những người gốc Việt. Nên những họ Việt Nam thường không được dịch sang tiếng Anh mà chỉ bỏ dấu và sử dụng để tránh bị sai nghĩa. Họ Hồ Trong Tiếng Hàn Họ Hồ trong tiếng Hàn 호 – Ho. Đây là họ của người thuộc ở vùng văn hóa Đông Á gồm Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. Theo như thống kê ở xứ Kim Chi, họ 호 đứng thứ 161 và chiếm dân số Hàn Quốc. Khám phá 🌼 Các Họ Ở Hàn Quốc ❤️️ Những Họ Đông, Nổi Tiếng Nhất 100 Tên Họ Hồ Đẹp Cho Bé Trai Chia sẻ đến bạn đọc top 100 Tên Họ Hồ Đẹp Cho Bé Trai được chúng tôi chọn lọc và biên soạn dưới đây. Hồ Khánh anHồ Thanh HuyHồ Phước LộcHồ Thái SanHồ ức PhiHồ Liên KiệtHồ Cao SơnHồ ình TrungHồ Hùng TườngHồ Khánh AnHồ ình NamHồ Tiến HòaHồ Danh NhânHồ ăng MinhHồ Tùng QuangHồ Cường ThịnhHồ Ân ThiệnHồ Thành ÂnHồ Gia NghịHồ Bá ThiệnHồ Hồng LiêmHồ Thành PhươngHồ Quốc TiếnHồ Minh HuấnHồ Gia KiệtHồ Nhật ThịnhHồ Duy TânHồ Quang XuânHồ Quang VinhHồ Lam PhươngHồ ình QuảngHồ ức TríHồ Hoàn VũHồ Cao KỳHồ Trí DũngHồ Tấn TrươngHồ Anh TháiHồ Quốc MạnhHồ Tân PhướcHồ Hữu HùngHồ Hoàng QuânHồ Minh TháiHồ Minh HưngHồ Chí ThanhHồ Quốc ToảnHồ Hùng CườngHồ Hữu CanhHồ Hữu VượngHồ Minh HòaHồ Khôi NguyênHồ ông PhươngHồ Cao PhongHồ Mạnh ìnhHồ Gia PhướcHồ Triều ThànhHồ Chí NamHồ Khánh GiangHồ Công LýHồ Hải SơnHồ Đức TiềnHồ Duy ThắngHồ ức KhiêmHồ Duy KhangHồ Thành VinhHồ ức HạnhHồ Lương ThiệnHồ Bảo SơnHồ Quốc TrụHồ Tuấn ChâuHồ Phước NhânHồ Khoa TrưởngHồ Quang ThạchHồ Hồ NamHồ Hùng DũngHồ Văn QuốcHồ Hồng ViệtHồ Quốc HiềnHồ Hiếu ThôngHồ Tất HiếuHồ Hoàng KhôiHồ Gia MinhHồ Hoàng DuệHồ Thanh oànHồ Thành SangHồ Huy TrânHồ Minh QuốcHồ ăng KhoaHồ Khải CaHồ Bảo TínHồ An TườngHồ Quốc HùngHồ Minh ThạcHồ Trí ThắngHồ Quốc ThànhHồ Bá CườngHồ Công LuậnHồ ức ÂnHồ Duy HùngHồ Bảo HiểnHồ Tường Lân Tổng hợp 💧 Tên Con Trai Họ Hồ Hay ❤️️ 450+ Tên Bé Trai Đẹp Nhất 100 Tên Họ Hồ Đẹp Cho Bé Gái Dưới đây là 100 Tên Họ Hồ Đẹp Cho Bé Gái để các bạn đọc có thêm cho mình nhiều ý tưởng mới để đặt tên hay. Hồ Thị Diệu ThúyHồ Cẩm LinhHồ Thị Ngọc VyHồ Thị Việt NgaHồ Thu HàHồ Thị Minh ThưHồ Lệ NgaHồ Thị Bảo QuyênHồ Hoài AnHồ Thị Hạnh ChiHồ Thị Hạnh TrangHồ Bích LoanHồ Thị Hồng HàHồ Thị Thanh ThưHồ Mai KhôiHồ Phương QuỳnhHồ Diễm KiềuHồ Huệ AnHồ Duy UyênHồ Thị Gia HânHồ Thảo QuyênHồ Hồng OanhHồ Thị Thúy NgọcHồ Uyển NhưHồ Hà GiangHồ Thị Ngọc VânHồ Thu NhiênHồ Minh KhaiHồ Thị Hương LâmHồ Thị Tuyết NgaHồ Ánh HồngHồ Mỹ VânHồ Diễm LệHồ Vân NhiHồ Thị Diệu HoaHồ Thị Minh HuyềnHồ Trúc QuânHồ Thị Bích ThảoHồ Thị Nguyệt LanHồ Thị Linh NhiHồ Thị Ngọc iệpHồ Diệu NgaHồ Mỹ HoànHồ Thị Bích DiệpHồ Thị Bạch TràHồ Mộng HoaHồ Tâm ĐanHồ Thị Uyên ViHồ Hiếu HạnhHồ Thị Xuân LiễuHồ Hà LiênHồ Kim NgọcHồ Thị Tuyết HânHồ Thị Khánh HàHồ Kiều KhanhHồ Hương GiangHồ inh HươngHồ Xuân LinhHồ Hoài GiangHồ Ý NhiHồ Huyền TrânHồ Thị Minh AnHồ Thị Kim MaiHồ Thị Uyên ThơHồ Thị Diễm ThảoHồ Hồng HạnhHồ Trâm AnhHồ Minh ThủyHồ Thị Mỹ TrangHồ Mỹ PhượngHồ Nhã UyênHồ Thị Bích ChâuHồ Thị Quỳnh HươngHồ Mai LanHồ Thị Hải NhiHồ Thúy NgaHồ Thiên PhươngHồ Thị Khánh ChiHồ Lan NhiHồ Thị Phương DungHồ Kim DungHồ Thị Diễm PhúcHồ Thị Lệ ChiHồ Thị Lan KhuêHồ Hồng NgọcHồ Thị Hải PhượngHồ Thị Minh DuyênHồ Ngọc QuyênHồ Thị Diệu VânHồ Thị Mộng LanHồ Thị Minh AnhHồ Thị Nguyên ThảoHồ Thị Thụy LâmHồ Hạ UyênHồ Thị Cẩm ThúyHồ Thị Hạ TiênHồ Thị Cẩm HạnhHồ Thị Khánh MaiHồ Xuân BảoHồ Kiều Anh Đón đọc 🎯 Tên Con Gái Họ Hồ Hay ❤️️ 500 Tên Bé Gái Đẹp, Ý Nghĩa Tư Vấn Đặt Tên Họ Hồ Miễn Phí Hãy để lại bình luận hoặc liên hệ với chúng tôi nếu bạn đọc cần hỗ trợ Tư Vấn Đặt Tên Họ Hồ Miễn Phí nhé! ⏩ Liên Hệ ⏪
[Tác giả Quang Nguyen] Bài viết thể hiện quan điểm của riêng tác giả. Mọi người nên cân nhắc trước khi đọc. Người Việt Nam thần thánh ai cũng có HỌ , nhưng có lẽ ít người biết gốc tích họ của mình, tôi xin giới thiệu bài biên lừng danh của anh Vinhhuy Le, 1 giáo sư lừng danh kim cổ về Họ của người Việt HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT Danh tính gắn liền với đời người, ai cũng có quyền tự hào về tên họ của mình, nhưng ít khi người ta quan tâm cái họ của mình bắt nguồn từ đâu; và càng hiếm người phát hiện ra tộc Việt vốn… không có họ. Họ của người Việt, trừ một số rất ít mượn của Chiêm tộc và Chân Lạp, còn thì hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa. Đọc sử Việt Nam, nếu chú ý cái họ, ta sẽ thấy thủy tổ các dòng dõi vương triều Đại Việt đều có huyết thống rơi rớt từ phương Bắc Ngô Quyền, người sáng lập triều Ngô, gốc ở đất Ký 冀 – tên gọi tắt tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa; Đinh Bộ Lĩnh, người gốc Việt 粵 – tên gọi tắt tỉnh Quảng Đông; Lê Hoàn gốc Thục 蜀 – tên gọi tắt tỉnh Tứ Xuyên; Lý Công Uẩn và Trần Thừa cùng gốc Mân 閩 – tên gọi tắt tỉnh Phúc Kiến; Hồ Quý Ly gốc ở Chiết Giang; Mạc Đăng Dung gốc Quảng Đông; Lê Lợi gốc Phúc Kiến; Trịnh Kiểm, cũng như Nguyễn Phúc Ánh, đều gốc Mân Phúc Kiến. Tại sao lại có sự dính líu của các vương triều ở đây? Thật ra không phải chỉ bọn vua quan, mà cả lê dân ít nhiều đều có gốc gác từ Tàu. Có muốn chối bỏ điều đó cũng không được, nó thể hiện rành rành trên chứng minh thư mỗi người. HỌ TRIỆU 趙 Xếp theo số lượng thì họ Triệu đứng hàng thứ 7 ở Trung Hoa. Họ Triệu hình thành chủ yếu là do họ Doanh 嬴. Thủy tổ họ Doanh có công lớn trừ phản tặc, được Chu Mục vương 1054-949 trCn cắt thưởng cho thành Triệu. Từ đó, để nhớ huân công này, phần nhiều con cháu họ Doanh lấy Triệu làm họ, và lập ra nước Triệu thời Chiến quốc. Triệu quốc thiên đô đến Hàm Đan nay thuộc tỉnh Hà Bắc, đến năm 222 trCn thì bị Tần diệt. Họ Triệu sinh sôi phát triển chủ yếu ở miền bắc Trung Hoa. Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên, vào cuối đời Tần, dòng dõi nước Triệu là Triệu Đà, làm huyện lệnh của Tần, vì bất phục, muốn tạo dựng giang sơn riêng, nên đã cát cứ một dải Lĩnh Nam, lấy Quảng Châu làm trung tâm, lập ra nước Nam Việt, tự xưng Nam Việt vương. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” “Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định, nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung nay ở tỉnh Quảng Đông. Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 trCn], Tần Nhị thế năm thứ 3, vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt vương”. HỌ NGÔ 吳 Ngô được xếp hạng là dòng họ lớn thứ 10 ở Trung Hoa, hàng thứ 6 ở Việt Nam, và là một trong 20 họ phổ biến ở Triều Tiên. Nguồn gốc họ Ngô vốn từ họ Cơ 姬, thủy tổ là Thái Bá và Trọng Ung đời nhà Thương. Nguyên đời Thương 1766-1122 trCn, thủ lĩnh họ Cơ của bộ tộc Chu là Cơ Cố Công Chu Thái vương có ba con trai Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Chu Thái vương đặt hy vọng lớn vào người con út Quý Lịch. Thái Bá và Trọng Ung do đó truyền ngôi lại cho em. Quý Lịch sau này có người con là Cơ Xương làm nên đại nghiệp, lập nhà Chu, chính là Chu Văn vương, người diệt nhà Thương. Nói về Cơ Thái Bá và Cơ Trọng Ung, họ sau đó đã đến khai phá vùng duyên hải mạn đông nam. Năm 585 trCn, cháu đời thứ 19 của Trọng Ung là Thọ Mộng chính thức xưng vương, lập nên nước Ngô hùng mạnh, từng tranh bá với thiên hạ. Đến 473 TrCn, Ngô bị nước Việt diệt. Con cháu nước Ngô chạy loạn tứ tán, để khỏi quên nước cũ, họ lấy quốc hiệu Ngô làm họ. Họ Ngô đào thoát ra hải ngoại, đã sớm đến Nhật Bản. Sau khi nước Ngô bị diệt, khoảng 450 trCn, nhiều con cháu họ Ngô đã đến Nhật Bản. Có nhiều giả thiết cho rằng Thần Võ thiên hoàng Jinmu Tennō, vị Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản, là dòng dõi họ Ngô thời Chiến quốc. Cùng lúc với nhánh lánh nạn sang phương đông, một chi khác của họ Ngô thiên di về phương Nam, đến Giao Chỉ. Sau đó, do nhậm chức quan hoặc bởi doanh thương, họ Ngô ngày càng nhiều người tìm đến vùng đất này. Trong bộ “Nguyên Hòa tính toản” của Lâm Bảo đời Đường biên soạn còn ghi lại Cháu đích tôn của họ Ngô ở Bột Hải là Ngô Nạp nhậm chức thứ sử An Châu sau đổi thành Ái Châu, nay là tỉnh Thanh Hóa, do đó nhiều người họ Ngô ở Bột Hải đã di cư đến miền bắc Việt Nam. Khi nhà Đường diệt vong, Trung Hoa phân rã thành 10 nước. Lúc ấy có Lưu Ẩn là tiết độ sứ Thanh Hải quân kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải quân và An Nam đô hộ phủ. Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nham lên thay, tự xưng mình là hậu duệ nhà Hán, lập ra nhà Nam Hán. Đây chính là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc bên Tàu 907-979. Năm 917, Nam Hán bổ nhiệm Dương Đình Nghệ làm tiết độ sứ Giao Chỉ. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị bộ tướng là Kiều Công Tiễn sát hại để cướp ngôi vị. Năm sau, một nha tướng khác, đồng thời cũng là con rễ của Dương, là Ngô Quyền, mang quân từ châu Ái Thanh Hóa kéo về giết Kiều Công Tiễn, đồng thời đánh bại luôn quân Nam Hán vừa kéo sang toan bình định Giao Chỉ. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập nên nhà Ngô. Sử nước ta vẫn thường tâng bốc Ngô là vương triều độc lập đầu tiên của Đại Việt, nhưng thực ra đây chỉ là sự tranh chấp quyền lợi và thế lực giữa bọn quan lại Trung Hoa trong lúc rối ren mà thôi. Ngô Quyền chính là một người Tàu, là cháu đời thứ 50 của Ngô Quý Trát ở trấn Diên Lăng thuộc tỉnh Giang Tô. Quý Trát là con thứ tư của Thọ Mộng, người khi xưa đã lập nên nước Ngô. Ngô vương vốn muốn truyền ngôi cho Thọ Mộng, nhưng ông không chịu nhận, bỏ trốn đến Diên Lăng khai khẩn lập ấp. Chi họ Ngô này sau đó có người thiên di sang Nam, đến đời Ngô vương Quyền thì được làm nha tướng, lại được Dương Đình Nghệ gả con, cho phụ coi quản châu Ái. HỌ ĐINH 丁 Theo các sách “Nguyên Hòa tính toản”, “Vạn tính thống phổ”, “Thông chí – thị tộc lược”, thì gốc của họ Đinh là từ họ Khương. Con trai Khương Tử Nha là Khương Cấp, cùng làm trọng thần nhà Chu, khi mất được Chu ban cho thụy hiệu là Đinh công, con cháu của Cấp vì đó lấy thụy hiệu làm họ. Thời Ngũ đại Thập quốc, Trung Hoa mênh mông chia thành 10 nước xâu xé nhau, thì quận Giao Chỉ nhỏ bé bằng bàn tay cũng chia làm 12 sứ quân 944-968 tranh giành thế lực, và trong 12 thế lực đó, hết 3/4 có thể xác định đều là người Tàu. Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng cờ lau tập trận, là con của Đinh Công Trứ. Trứ vốn người Tàu gốc ở Quảng Đông, sang làm thứ sử châu Hoan, là nha tướng của sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mệnh một năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng binh quyền, từ đó dẹp bọn người Tàu kia, lập ra nước Đại Cồ Việt 968. Nếu không có gốc gác họ Tàu đó, vào năm 975, Tống Thái tổ khó lòng phong Đinh Bộ Lĩnh làm “An Nam Đô hộ Kiểm hiệu Thái sư Giao Chỉ quận vương”, để kể từ đó Trung Hoa chịu nhìn nhận Đại Việt như một nước chư hầu, chứ không phải là quận huyện do họ cai quản nữa. HỌ LÊ 黎 Lê xếp hạng 92 trong sách “Bách tính gia” của Trung Hoa soạn vào đời Tống, nhưng là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam. Đời nhà Thương, có hai nước chư hầu nhỏ cùng lấy quốc hiệu là Lê một thuộc khu vực tỉnh Sơn Tây Trung quốc ngày nay; và một ở huyện Vận Thành tỉnh Sơn Đông. Con cháu hai nước này đều lấy quốc hiệu làm họ. Từ thời cổ đại, đã có nhiều người Tàu họ Lê di cư sang Đại Việt, chẳng những thế, họ còn gầy dựng Lê thành vọng tộc suốt một dải Thanh Hóa. Năm 980, người họ Lê gốc Thục Quảng Tây là Lê Hoàn sáng lập nên triều Tiền Lê của Đại Việt. Năm 1428, một người họ Lê khác, gốc Mân Phúc Kiến, là Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Đọc kỹ “Đại Việt sử ký toàn thư”, ta sẽ thấy ông Phúc Kiến Lê Lợi là người quen biết, thường xuyên vào ra trướng phủ của các quan cai trị người Minh. HỌ LÝ 李 Lý xếp hạng tư trong “Bách gia tính”, tính về số lượng là dòng họ lớn nhất ở Trung Hoa. Họ Lý vốn đã có từ đời nhà Ân, gốc ở Lộc Ấp tỉnh Hà Nam, hậu duệ sau này lập nên Đại Đường 618–907 thịnh trị ở Trung Hoa. Do nhiều duyên khởi, sau khi nhà Đường bị diệt, đã hình thành nên hai chi họ Lý ở Việt Nam và Triều Tiên. Năm 1009, Lý Công Uẩn, người đất Mân Phúc Kiến, vốn dòng dõi Tào vương Lý Minh con trai Đường Thái tôn Lý Thế Dân lập nên nhà Hậu Lý. “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi thân thế Lý Công Uẩn rất khôi hài bà mẹ họ Phạm, nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với thần nhân giao hợp mà có chửa”. Theo “Tốc thủy ký văn” soạn khoảng 1019-1086 của Tư Mã Quang viết về giai đoạn Lục triều của Bắc Tống, có đoạn thuật lại nguyên do chiến tranh giữa Tống-Lý, vô tình nhắc đến một chi tiết liên quan đến nguồn gốc nhà Lý Ngoài ra, còn “Mộng Khê bút đàm” soạn khoảng 1086-1093 của Thẩm Quát 1031-1095; “Tục Tư trị thông giám trường biên” của Lý Đảo 1115-1184, “Trịnh Thiều Châu kỷ lược phụ lục” soạn khoảng 1240-1280 của Trịnh Tủng, cũng đều khẳng định gốc gác người Mân của nhà Hậu Lý. Thậm chí, còn có “Lý trang Chử nội Lý thị phòng phả” soạn năm 1266 – đời Nam Tống, là sách gia phả dòng họ Lý ở đất Mân còn ghi chi tiết cụ thể ông nội Công Uẩn tên Lý Tung 883-948, nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu. Tung làm tể tướng nhà Hậu Tấn, đời Tấn Cao tổ trị vì năm 942-946, Tung bị vu oan hãm hại nên con cháu phải dời đến đất Mân; cha Uẩn là Lý Thuần An 921-999, con cả của Lý Tung, đang làm chức Thủy lục Vận sứ, do cha bị hại mà phải bỏ quan chức đào thoát, An từ đó kinh doanh vận tải đường thủy, từng đưa thuyền đến Chân Lạp, Xiêm La, và sau định cư Giao Chỉ; còn Công Uẩn, vốn tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Thuần An. Những sách liệt kê trên đều là sử liệu quan trọng, có ghi rõ gốc gác Công Uẩn, và đều có trước “Đại Việt sử ký Toàn thư” soạn 1272-1697, vậy tại sao “Toàn thư” lại chép Uẩn là con hoang của thần nhân, con nuôi của Lý Khánh Văn? Các nhà chép sử của Đại Việt còn nợ hậu thế câu trả lời cho vấn đề này. Do hoàng thất gốc Mân, nên thời Lý-Trần, người Mân từ Trung Hoa sang đều được ưu đãi, phong cho quan chức và trọng dụng. Triều đình Lý-Trần do đó cũng mô phỏng y hệt thể chế Trung Hoa, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, khoa cử. Chữ Hán được phổ cập và dùng làm phương tiện tiến thân cho tầng lớp nho sĩ. Có thể nói, Lý-Trần tuy tiếng là vương triều độc lập, nhưng lại có công Hán hóa Việt tộc hơn cả người Hán. Làm vua rồi, Uẩn bắt chước các hoàng đế Trung Hoa, phong “quốc tính” cho những người có công trạng, họ Lý ở Đại Việt từ đó lan rộng. HỌ TRẦN 陳 Họ Trần được phân bố rất rộng, đây là họ được xếp hàng thứ 10 trong “Bách gia tính”, lớn hàng thứ 5 ở Trung Hoa, và là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam. Họ Trần vốn gốc là nước Trần cổ đời Tây Chu, chiếm lĩnh vùng Hoài Nam nay thuộc tỉnh Hà Nam – Trung Hoa. Vua khai quốc nước Trần là Duy Mãn, vốn là hậu duệ của vua Thuấn, con cháu lấy quốc hiệu cựu triều làm họ nên có họ Trần. Họ Trần thiên di hải ngoại, đời Tống đã có người họ Trần đến Giao Chỉ. “Toàn thư” ghi họ Trần vốn người đất Mân. Nhưng truy theo gia phả thì tổ tiên Trần thiệt ra là họ Tạ. Tạ Thăng Khanh vốn người huyện Trường Lạc, phủ Phúc Châu nay là thủ phủ tỉnh Phúc Kiến, do thất chí trong khoa cử nên bỏ nhà lưu lạc đến Ung Châu, tỉnh Quảng Tây. Sau đó Khanh buôn bán ở vùng biên giới, được viên quan ở Giao Chỉ là Trần Hiếu nhận làm rễ, lại đổi tên cho thành Trần Kính. Kính chính là cha của Trần Thừa, ông nội của Trần Cảnh tức Trần Thái tôn 1218-1277. [“Đại Việt sử ký Toàn thư” ghi “… Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân có người nói là người Quế Lâm, có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê…” Bản kỷ, Trần Thái tôn hoàng đế]. Sau khi lên ngôi, nhà Trần liền cử sứ giả sang Tàu cầu phong, nguyện suốt đời giao hảo với Đại Tống, được sách phong An Nam quốc vương. Do cả đời chỉ biết Đại Tống là thượng quốc, vẫn cho Trung Hoa là đệ nhất thiên hạ, nên khi Mông Cổ mượn đường đánh Tống, nhà Trần chẳng biết trời cao đất dày, xem quân Mông như phường man di nhược tiểu. Trong cuộc “Kháng Mông lần thứ nhất” 1257, “Toàn thư” thuật lại trận chiến, thấy vua tôi nhà Trần ra trận vẫn khinh thị như đi xem hát, mãi đến lúc kinh thành Thăng Long bị san bằng mới hiểu ra sức mạnh của đội quân Mông Cổ. Và sau này, khi núng thế trước sức mạnh ấy, Thái tôn hỏi kế, Trần Nhật Hiệu đã bày mưu “nhập Tống” chạy sang nước Tống. Hẵn khi đó, anh em nhà ấy vẫn không sao ngờ rằng hơn 20 năm sau Nam Tống bị Mông Cổ nuốt gọn. HỌ HỒ 胡 Trong “Bách gia tính”, Hồ đứng hàng thứ 158, nhưng về số lượng lại xếp hàng thứ 13 ở Trung Hoa. Họ Hồ, cũng như Trần, vốn bắt nguồn từ nước Trần cổ, đầu triều Tây Chu. Vốn Duy Mãn sáng lập nước Trần có thụy hiệu là Hồ công, con cháu do đó chia làm hai chi, một chi lấy quốc hiệu Trần làm họ, chi kia lấy thụy hiệu Hồ làm họ. Hồ Quý Ly 1336-1407, có lẽ do không được các sử gia đánh giá cao, nên đã ghi rất chi tiết về nguồn gốc “… Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung quốc, thời Hậu Hán 947-950 được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn tức vùng Diễn Châu, Nghệ An. Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ” “Toàn thư”, phụ lục Bản kỷ nhà Trần. Quý Ly không hề giấu diếm nguồn gốc người Tàu của mình. Lên ngôi, ông liền đổi quốc hiệu thành Đại Ngu – để ghi nhớ gốc họ Hồ vốn là con cháu Ngu Thuấn. Do gốc Tàu, thông thạo ngôn ngữ mẫu quốc, nên con Quý Ly là Nguyên Trừng sau này được nhà Minh trọng dụng. Sau này, có một kẻ họ Hồ từ tông chi Hồ Quý Ly, đổi thành họ Nguyễn và tiếm xưng hoàng đế, chính là Nguyễn Huệ [Hồ Thơm] 1788-1792. HỌ MẠC 莫 Mạc là dòng họ lâu đời nhất Trung Hoa, được sách “Bách gia tính” xếp hàng 168. Họ Mạc chiếm số lượng lớn ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Tứ Xuyên. Thủy tổ họ Mạc là Chuyên Húc, cháu nội Hoàng Đế. Chuyên Húc xây dựng thành cổ là Mạc thành nay thuộc Hà Bắc, Trung Hoa, con cháu lấy tên đất đó làm họ là Mạc. Họ Mạc khởi nguyên có hai chi một chi ở Hà Bắc như đã nói trên; chi khác bắt nguồn từ nước Sở thời cổ. Thời Nam Bắc triều 420-589, các ngoại tộc đến định cư ở Tàu phần lớn đều lấy Mạc làm họ. Đến thời Ngũ đại Thập quốc 907-979, họ Mạc ở tỉnh Giang Nam phát triển mạnh, còn họ Mạc ở phương bắc do sự trà trộn của ngoại tộc nên suy yếu mai một dần. Lúc này họ Mạc bắt đầu đến Phúc Kiến sinh sống. Cuối đời Tống, do Mông Cổ xâm phạm, họ Mạc lại lần xuống đến Quảng Đông, Quảng Tây. Mạc Đăng Dung 1483-1541, tổ tiên vốn là di dân Trung Hoa từ Quảng Đông. Cùng là soán ngôi, nhưng Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn được tôn là minh quân, còn Đô chỉ huy sứ Mạc Đăng Dung phải chịu tiếng lộng thần. Triều Mạc ngắn ngủi, chỉ 13 năm 1527-1540, cũng như triều Hồ, bị lên án vì đã bại binh trước quân Tàu. Mạc Kính Thự trong tờ biểu cầu cứu Mãn Thanh cũng có kể ra ông cha mình vốn gốc ở thôn Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông. HỌ TRỊNH 鄭 Họ Trịnh nguồn gốc từ nước Trịnh 806-375 trCn thời Xuân Thu. Trịnh bị nước Hàn diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Trịnh đứng hàng thứ 7 trong “Bách gia tính”, về số lượng xếp hàng 21 ở Trung Hoa. Họ Trịnh phân bố rất rộng, đặc biệt đông đúc ở Chiết Giang và Phúc Kiến. Họ Trịnh di dân từ Phúc Kiến đã dựng nên nhà Trịnh ở Đại Việt, tồn tại được 242 năm 1545-1787. Trịnh Hoài Đức 1765-1825, công thần của nhà Nguyễn, cũng là dòng dõi họ Trịnh ở đất Mân tên tắt của tỉnh Phúc Kiến này. HỌ NGUYỄN 阮 Nguyễn là tên một nước chư hầu nhỏ thời nhà Thương 1766-1122 trCn. Nước này chiếm lĩnh một dải huyện Kính Xuyên, thuộc tỉnh Cam Túc. Cuối đời Thương, nước Nguyễn bị diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Thời Nam Bắc triều, Trung Hoa đại loạn. Họ Nguyễn ở vùng Giang-Chiết vì muốn tránh xa chiến địa nên dâng tấu tình nguyện sang Giao châu làm quan rất đông. “Hậu Hán thư” ghi lại trong số đó có viên huyện lệnh Đan Dương, tên là Nguyễn Phu xin được chức thứ sử Giao Châu, bèn sang Nam trấn nhậm [vào năm 353]. Họ Nguyễn từ đó phát triển sang Đại Việt. Sau đó, khi Trần cướp ngôi đã buộc toàn bộ họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn vì vậy trở thành dòng họ lớn nhất Việt Nam. Có nhiều giả thiết đặt ra xoay quanh nguồn gốc chúa Nguyễn, có vài nguồn khẳng định Gia Long chính nhờ gốc Mân này mà được hầu hết Hoa kiều ở Việt Nam hết lòng ủng hộ tài lực, vật lực, làm nên nghiệp đế.
nguồn gốc họ hồ